Amenemhat III

Amenemhat III
Lamares và Ameres theo Manetho, hay Ammenemes
Tượng đầu của Amenemhat III, tại Viện bảo tàng Louvre
Pharaon
Vương triều1860 TCN - 1814 TCN (Vương triều thứ 12)
Tiên vươngSenusret III
Kế vịAmenemhat IV
Tên riêng
G39N5
<
imn
n
mHAt
t
>

Amenemhat[1]
Amun is in front
Tên Horus
Wahankh[1]
Long of life
G5
V29S34
Tên Nebty
(hai quý bà)
Itjijautawy[1]
Who comes to the inheritance of the two lands
G16
V15
t
E9
D36
F44
t
N16
N16
Tên Horus Vàng
ˁ3 ba(u) (Aabaw)[1]
Great of power
G8
O29
D36
G30
ChaSesostris III
Mất1814 TCN
Chôn cấtKim tự tháp tại Hawara
Lăng mộKim tự tháp tại Dahshur và Hawara

Amenemhat III, cũng còn được viết là Amenemhet III là một pharaon thuộc Vương triều thứ Mười hai của Ai Cập. Ông trị vì từ khoảng năm 1860 TCN tới khoảng năm 1814 TCN, niên đại dài nhất của ông được biết đến trên một cuộn giấy cói là Năm cai trị thứ 46, I Akhet ngày 22.[2].vương triều của ông được coi là thời kỳ hoàng kim của Trung Vương quốc.[3] Ông có thể đã có một thời kì đồng trị vì dài (20 năm) với cha mình, Senusret III.[4]

Bức tượng từ Bộ sưu tập Ai Cập của bảo tàng Hermitage
Pectoral of Amenemhat III, tomb of Mereret.
Pyramidion or Capstone of Amenemhat III's pyramid.

Vào giai đoạn cuối vương triều mình, ông đã cùng trị vì với Amenemhat IV, như được ghi lại trên một bản văn khắc đá bị hư hỏng ở Konosso thuộc Nubia, trong đó năm 1 của Amenemhat IV tương đương với năm 46, 47 hoặc 48 thuộc vương triều của ông..[5] Con gái ông, Sobekneferu, sau này đã kế vị Amenemhat IV, trở người cai trị cuối cùng của vương triều thứ 12. Vương hiệu của Amenemhat III, Nimaatre, có nghĩa là "Thuộc về Công lý của Re."

Kim tự tháp

Ông xây dựng kim tự tháp đầu tiên của mình ở Dahshur (được gọi là "Kim tự tháp Đen"), nhưng đã gặp phải vấn đề trong quá trình xây dựng nên nó đã bị từ bỏ.[6] Khoảng năm 15 dưới vương triều của mình, nhà vua quyết định xây dựng một kim tự tháp mới tại Hawara, gần Faiyum.[7] Còn kim tự tháp ở Dahshur đã được sử dụng làm nơi an táng một số phụ nữ thuộc hoàng gia.

Ngôi đền an táng gắn liền với kim tự tháp Hawara và được Herodotus và Diodorus Siculus gọi là "Mê cung".[8] Strabo ca ngợi nó như là một kỳ quan của thế giới. Tuy nhiên, phòng an táng của nhà vua đã bị cướp từ thời cổ đại. Con gái hoặc em gái của ông, Neferuptah, được chôn cất trong một kim tự tháp riêng biệt (được phát hiện vào năm 1956) nằm cách kim tự tháp của ông 2 km về phía tây nam.[9][10]

Đại kênh đào

Trong suốt thời gian cai trị lâu dài của mình, Amenemhat đã tiếp tục công trình có lẽ bắt đầu bởi vua cha nhằm nối ốc đảo Fayum với sông Nile. Khu vực này trước đây chỉ là một đầm lầy. Một kênh đào dài 16 km và rộng 1,5 km đã được đào, gọi là Mer-Wer (Đại kênh đào); nó bây giờ được gọi là Bahr Yussef. Công trình dân dụng vĩ đại này cuối cùng đã được hoàn thành bởi con trai của ông, Amenemhat IV, và nó đã mang lại sự thịnh vượng cho Fayum. Khu vực này sau đó trở thành một vựa lúa mì cho đất nước và tiếp tục được sử dụng cho đến năm 230 TCN khi nhánh Lahun của sông Nile bồi lên.

Viên tể tướng Kheti đã giữ chức vụ này vào khoảng năm 29 dưới vương triều vua Amenemhat III. Cuộn giấy cói toán học Rhind ban đầu được cho là đã được sáng tác dưới vương triều của Amenemhat.[11] Các công trình của Amenemhat III vẫn còn khá nhiều và trong tình trạng tuyệt vời. Chúng bao gồm một ngôi đền nhỏ được trang trí tại Medinet Maadi ở Faiyum, mà được ông và cha của ông xây dựng dành riêng cho nữ thần vụ mùa Renenutet.

Chú thích

  1. ^ a b c d Amenemhat (III) Nimaatre (1807/06-1798/97 TCN) truy cập 31 tháng 7 năm 2006
  2. ^ Francis Llewellyn Griffith, The Petrie Papyri, London 1898, T. XIV (Pap. Kahun VI, 19)
  3. ^ Callender, Gae (2003). “The Middle Kingdom Renaissance”. Trong Shaw, Ian (biên tập). The Oxford History of Ancient Egypt. tr. 156.
  4. ^ Kim S. B. Ryholt, The Political Situation in Egypt During the Second Intermediate Period, C. 1800-1550 B.C., Museum Tusculanum Press 1997, pp.211f.
  5. ^ Kim S. B. Ryholt, The Political Situation in Egypt During the Second Intermediate Period, C. 1800-1550 B.C., Museum Tusculanum Press 1997, p.212
  6. ^ Miroslav Verner, The Pyramids: The Mystery, Culture, and Science of Egypt's Great Monuments, Grove Press 2002, p.427
  7. ^ Lehner, Mark (2001). The Complete Pyramids: Solving the Ancient Mysteries. London: Thames & Hudson. tr. 182. ISBN 0-500-05084-8.
  8. ^ Miroslav Verner, The Pyramids: The Mystery, Culture, and Science of Egypt's Great Monuments, Grove Press 2002, p.428
  9. ^ Nagib Farag, Zaky Iskander, The Discovery of Neferwptaḥ, 1971, p.103
  10. ^ Callender, Gae (2003). “The Middle Kingdom Renaissance”. Trong Shaw, Ian (biên tập). The Oxford History of Ancient Egypt. tr. 158.
  11. ^ Marshall Clagett, Ancient Egyptian Science: A Source Book, 1989, p.113

Đọc thêm

  • W. Grajetzki, The Middle Kingdom of Ancient Egypt: History, Archaeology and Society, Duckworth, London 2006 ISBN 0-7156-3435-6, 58-61

Liên kết ngoài

  • Amenemhat (III) Nimaatre
  • The Pyramid of Amenemhet III from Talking Pyr
  • Cổng thông tin Ai Cập cổ đại
  • Cổng thông tin Lịch sử
  • x
  • t
  • s

Thời kỳ

Vương triều

  • Pharaon (nam
  • nữ ♀)
  • không chắc chắn
Tiền Vương triều
(trước năm 3150 TCN)
Hạ
Thượng
Sơ triều đại
(3150–2686 TCN)
I
II
Cổ Vương quốc
(2686–2181 TCN)
III
IV
V
VI
Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Nhất
(2181–2040 TCN)

Thời kỳ

Vương triều

  • Pharaon (nam
  • nữ ♀)
  • không chắc chắn
Trung Vương quốc
(2040–1802 TCN)
XI
Nubia
XII
Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai
(1802–1550 TCN)
XIII
XIV
XV
XVI
Abydos
XVII

Thời kỳ

Vương triều

  • Pharaon (nam
  • nữ ♀)
  • không chắc chắn
Tân Vương quốc
(1550–1070 TCN)
XVIII
XIX
XX
Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba
(1069–664 TCN)
XXI
XXII
XXIII
XXIV
XXV

Thời kỳ

Vương triều

  • Pharaon (nam
  • nữ ♀)
  • không chắc chắn
Hậu nguyên
(664–332 TCN)
XXVI
XXVII
XXVIII
XXIX
XXX
XXXI
Thuộc Hy Lạp
(332–30 TCN)
Argead
Ptolemaios